- 7,200
- 30,309
- Thread cover
- data/assets/threadprofilecover/ThyTDV93-1734939499.png
- Chủ đề liên quan
- 97179, 97155, 97104, 97128
Một trong những cách có thể giúp nhà giao dịch xác định được hướng đi ngắn hạn của thị trường và cả vùng giá mục tiêu mà thị trường hướng tới chính là xác định những vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài.
Xác định được những vùng thanh khoản này trên biểu đồ có thể giúp cho anh em trader điều chỉnh được giao dịch của mình đi theo hướng thanh khoản và tối đa hóa lợi nhuận của chiến lược.
Vậy thì bài viết hôm nay sẽ giúp cho anh em hiểu hơn về vùng thanh khoản bên trong và vùng thanh khoản bên ngoài, từ cách thức nhận biết đến việc sử dụng nó trong việc giao dịch và ví dụ thực tế cho anh em. Những ai chưa thành thạo lắm trong việc xác định vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài thì có thể bài viết này sẽ rất có ích đấy nhé.
Để hiểu được các vùng thanh khoản bên trong và vùng thanh khoản bên ngoài thì bạn cần phải hiểu được lý do thị trường biến động.
Về cơ bản thì giá di chuyển vì hai lý do sau:
Vì thanh khoản bên ngoài và bên trong của ICT được xác định bởi bên trong và bên ngoài phạm vi giá và nó còn được gọi là phạm vi giao dịch vì thế nên bạn cần phải hiểu được phạm vi giao dịch này là gì.
Phạm vi giao dịch (Dealing Range) về cơ bản là một khu vực giữa một mức giá cao đã được thiết lập (vùng này đã lấy đi thanh khoản của đỉnh cũ) và một mức giá thấp đã được thiết lập (mức này cũng đã lấy đi thanh khoản của đáy cũ).
Bạn có thể hình dung phạm vi giao dịch của ICT như hình bên dưới đây:
Tức là phạm vi từ vùng đỉnh đã quét đỉnh trước đó đến đáy đã quét đáy trước đó chính là phạm vi giao dịch của chúng ta.
Xác định được phạm vi giao dịch xong thì việc xác định được thanh khoản bên ngoài và thanh khoản bên trong của chúng ta sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Muốn nắm được vùng thanh khoản bên trong thì bạn cần phải hiểu được phạm vi bên trong là gì trước.
Về cơ bản thì tất cả những vùng giá nằm giữa phạm vi giao dịch đều được gọi là phạm vi bên trong.
Nhưng trong tất cả những vùng giá ở phạm vi bên trong này thì chỉ có khối FVG là được ICT đánh dấu là vùng thanh khoản bên trong (IRL) mà thôi.
Vậy thì lúc này bạn có thể đặt câu hỏi là tại sao chỉ có khối FVG được xác định là vùng thanh khoản bên trong chứ không phải là các khối Order Block hay đỉnh hoặc đáy bên trong phạm vi giao dịch này?
Câu trả lời đó là vì khối FVG được hình thành bởi 3 nến và nó để lại một vùng giá không trùng nhau giữa mức giá cao nhất và thấp nhất của nến 1 và nến 3, tạo nên một khoảng trống giá và về cơ bản thì mức đỉnh/đáy hình thành khối FVG này chính là một mức đáy/đỉnh và mức thanh khoản được thiết lập ở khung thời gian thấp hơn.
Khi mà giá di chuyển để cân bằng lại khối FVG này, về cơ bản nó sẽ quét thanh khoản ở khung thời gian thấp hơn, đó là lý do tại sao khối FVG được xét là vùng thanh khoản bên trong của ICT là vậy.
Bạn có thể xem hình bên dưới đây thể hiện được vùng thanh khoản bên trong (IRL), đây là khối FVG của khung thời gian H4:
Bạn sẽ khó có thể thấy rõ được vùng thanh khoản ở khung thời gian thấp hơn nếu như chỉ nhìn vào khối FVG của khung H4 này được, nhưng nếu về khung thấp hơn như khung M15 bạn sẽ thấy được những vùng thanh khoản rõ hơn khi thị trường tái cân bằng lại khối FVG này:
Như ở khung M15 bạn có thể thấy được thị trường hình thành khối FVG giảm giá ở khung H4 cũng đồng nghĩa với việc thị trường hình thành cho chúng ta một vùng thanh khoản đỉnh ở khung M15.
Như vậy thì về cơ bản, vùng thanh khoản bên trong (IRL) của chúng ta chính là khối FVG nằm bên trong phạm vi giao dịch nhé anh em. Khá đơn giản đúng không ạ? Bây giờ chúng ta tìm hiểu qua vùng thanh khoản bên ngoài nhé.
Trước tiên muốn hiểu được vùng thanh khoản bên ngoài thì bạn cần nắm được phạm vi bên ngoài là gì trước.
Vừa rồi, chúng ta có nắm được cách xác định phạm vi giao dịch (Dealing Range) rồi, vậy thì mức giá cao và thấp để hình thành phạm vi giao dịch chính là phạm vi bên ngoài.
Trong đó mức giá cao (hay còn gọi là mức đỉnh) còn được gọi là thanh khoản bên mua (BSL) với giả định là các lệnh buy stop tập trung phía trên mức cao của phạm vi giao dịch.
Ngược lại mức giá thấp của phạm vi giao dịch được gọi là thanh khoản bên bán (SSL) với giả đỉnh rằng các lệnh sell stop nằm bên dưới mức giá thấp của phạm vi giao dịch.
Các bạn nhìn hình bên dưới chính là vùng thanh khoản bên ngoài (ERL):
Như vậy, đối với vùng thanh khoản bên ngoài, anh em có thể hiểu đơn giản đó là đỉnh và đáy hình thành phạm vi giao dịch (Dealing Range) chính là vùng thanh khoản bên ngoài của chúng ta, trong đó một cái là thanh khoản đỉnh và một cái là thanh khoản đáy.
Nói chung là việc xác định vùng thanh khoản bên ngoài cũng khá đơn giản, không có gì phức tạp cả.
Về cơ bản thì giá di chuyển từ vùng thanh khoản bên ngoài tới vùng thanh khoản bên trong và sau đó lại di chuyển từ vùng thanh khoản bên trong ra tới vùng thanh khoản bên ngoài.
Vì vậy, sau khi bạn xác định được những vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài này thì hãy chú ý nếu như giá lấy đi thanh khoản phạm vi bên ngoài thì vùng giá tiếp theo mà nó di chuyển tới có khả năng cao chính là vùng thanh khoản bên trong với mục đích là để tái cân bằng lại khoảng cách giá trị hợp lý hay còn gọi là FVG và sau đó lại di chuyển qua vùng thanh khoản bên ngoài và chu kỳ này cứ tiếp diễn như vậy nhé anh em.
Để đánh dấu IRL và ERL trên biểu đồ giá thì bạn nên sử dụng khung thời gian thấp hơn để xác định vùng thanh khoản bên ngoài chẳng hạn như khung M15.
Còn vùng thanh khoản bên trong bạn cũng có thể sử dụng khung thời gian thấp như M15 hoặc có thể sử dụng khung thời gian thấp hơn nữa để xác định nhé.
Có thể nói các vùng thanh khoản bên ngoài và vùng thanh khoản bên trong rất có lợi cho việc xác định xu hướng tiềm năng trong ngày.
Để có thể xác định được xu hướng trong ngày bạn có thể làm như sau:
1. Xác định ERL và IRL
Như chúng ta đã nói trước đó thì giá di chuyển từ vùng thanh khoản bên trong ra tới vùng thanh khoản bên ngoài và ngược lại giá di chuyển từ vùng thanh khoản bên ngoài vô lại vùng thanh khoản bên trong.
Vì thế nên bạn hãy xác định phạm vi thanh khoản bên trong và bên ngoài trên biểu đồ ngày/tuần gần sát, phía trên và phía dưới giá hiện tại.
2. Xu hướng tiềm năng
3. Các kịch bản sau khi lấy đi vùng thanh khoản bên ngoài (ERL)
Thứ nhất: trong thị trường tăng giá
Nếu như bạn thấy giá quét và đóng cửa bên dưới ERL (đỉnh cũ) với sự đảo chiều hoặc có sự chuyển đổi động lượng ở khung thời gian thấp hơn, thì đó là dấu hiệu cho thấy thị trường có thể đảo chiều tiềm năng, thị trường bây giờ có thể sẽ giảm giá để đạt được vùng thanh khoản bên trong (IRL) cũng là FVG của chúng ta.
Thứ hai: Không có sự đảo chiều
Tức là giá đóng cửa phía trên ERL nhưng không có tín hiệu đảo chiều hoặc chuyển đổi động lượng nào sau khi quét ERL (đỉnh cũ) thì có thể có 2 khả năng sau:
Có thể thấy được thị trường sau khi lấy đi ERL trước đó thì nhanh chóng giảm giá và tìm về lại IRL của chúng ta.
Thực sự nếu có thể xác định chính xác được những vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài này có thể giúp cho các bạn nhanh chóng xác định được hướng đi ngắn hạn của thị trường và xác định mục tiêu giá cực kỳ chính xác, từ đó định hướng được chiến lược chính xác và có xác suất thắng cao hơn.
Và nhớ là luôn phải xác định bối cảnh và có thêm tín hiệu xác nhận khác để có được xác suất thành công cao hơn nhé.
Mời anh em tham khảo.
Xác định được những vùng thanh khoản này trên biểu đồ có thể giúp cho anh em trader điều chỉnh được giao dịch của mình đi theo hướng thanh khoản và tối đa hóa lợi nhuận của chiến lược.
Vậy thì bài viết hôm nay sẽ giúp cho anh em hiểu hơn về vùng thanh khoản bên trong và vùng thanh khoản bên ngoài, từ cách thức nhận biết đến việc sử dụng nó trong việc giao dịch và ví dụ thực tế cho anh em. Những ai chưa thành thạo lắm trong việc xác định vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài thì có thể bài viết này sẽ rất có ích đấy nhé.
Nguyên nhân giá di chuyển
Để hiểu được các vùng thanh khoản bên trong và vùng thanh khoản bên ngoài thì bạn cần phải hiểu được lý do thị trường biến động.
Về cơ bản thì giá di chuyển vì hai lý do sau:
- Thứ nhất là để quét thanh khoản.
- Thứ hai đó là để cân bằng lại vùng mất cân bằng mà thị trường hình thành trước đó, những vùng này chính là khối FVG.
Phạm vi giao dịch (Dealing Range) của ICT là gì?
Vì thanh khoản bên ngoài và bên trong của ICT được xác định bởi bên trong và bên ngoài phạm vi giá và nó còn được gọi là phạm vi giao dịch vì thế nên bạn cần phải hiểu được phạm vi giao dịch này là gì.
Phạm vi giao dịch (Dealing Range) về cơ bản là một khu vực giữa một mức giá cao đã được thiết lập (vùng này đã lấy đi thanh khoản của đỉnh cũ) và một mức giá thấp đã được thiết lập (mức này cũng đã lấy đi thanh khoản của đáy cũ).
Bạn có thể hình dung phạm vi giao dịch của ICT như hình bên dưới đây:
Tức là phạm vi từ vùng đỉnh đã quét đỉnh trước đó đến đáy đã quét đáy trước đó chính là phạm vi giao dịch của chúng ta.
Xác định được phạm vi giao dịch xong thì việc xác định được thanh khoản bên ngoài và thanh khoản bên trong của chúng ta sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Vùng thanh khoản bên trong (Internal Range Liquidity - IRL) là gì?
Muốn nắm được vùng thanh khoản bên trong thì bạn cần phải hiểu được phạm vi bên trong là gì trước.
Về cơ bản thì tất cả những vùng giá nằm giữa phạm vi giao dịch đều được gọi là phạm vi bên trong.
Nhưng trong tất cả những vùng giá ở phạm vi bên trong này thì chỉ có khối FVG là được ICT đánh dấu là vùng thanh khoản bên trong (IRL) mà thôi.
Vậy thì lúc này bạn có thể đặt câu hỏi là tại sao chỉ có khối FVG được xác định là vùng thanh khoản bên trong chứ không phải là các khối Order Block hay đỉnh hoặc đáy bên trong phạm vi giao dịch này?
Câu trả lời đó là vì khối FVG được hình thành bởi 3 nến và nó để lại một vùng giá không trùng nhau giữa mức giá cao nhất và thấp nhất của nến 1 và nến 3, tạo nên một khoảng trống giá và về cơ bản thì mức đỉnh/đáy hình thành khối FVG này chính là một mức đáy/đỉnh và mức thanh khoản được thiết lập ở khung thời gian thấp hơn.
Khi mà giá di chuyển để cân bằng lại khối FVG này, về cơ bản nó sẽ quét thanh khoản ở khung thời gian thấp hơn, đó là lý do tại sao khối FVG được xét là vùng thanh khoản bên trong của ICT là vậy.
Bạn có thể xem hình bên dưới đây thể hiện được vùng thanh khoản bên trong (IRL), đây là khối FVG của khung thời gian H4:
Bạn sẽ khó có thể thấy rõ được vùng thanh khoản ở khung thời gian thấp hơn nếu như chỉ nhìn vào khối FVG của khung H4 này được, nhưng nếu về khung thấp hơn như khung M15 bạn sẽ thấy được những vùng thanh khoản rõ hơn khi thị trường tái cân bằng lại khối FVG này:
Như ở khung M15 bạn có thể thấy được thị trường hình thành khối FVG giảm giá ở khung H4 cũng đồng nghĩa với việc thị trường hình thành cho chúng ta một vùng thanh khoản đỉnh ở khung M15.
Như vậy thì về cơ bản, vùng thanh khoản bên trong (IRL) của chúng ta chính là khối FVG nằm bên trong phạm vi giao dịch nhé anh em. Khá đơn giản đúng không ạ? Bây giờ chúng ta tìm hiểu qua vùng thanh khoản bên ngoài nhé.
Vùng thanh khoản bên ngoài (External Range Liquidity – ERL) là gì?
Trước tiên muốn hiểu được vùng thanh khoản bên ngoài thì bạn cần nắm được phạm vi bên ngoài là gì trước.
Vừa rồi, chúng ta có nắm được cách xác định phạm vi giao dịch (Dealing Range) rồi, vậy thì mức giá cao và thấp để hình thành phạm vi giao dịch chính là phạm vi bên ngoài.
Trong đó mức giá cao (hay còn gọi là mức đỉnh) còn được gọi là thanh khoản bên mua (BSL) với giả định là các lệnh buy stop tập trung phía trên mức cao của phạm vi giao dịch.
Ngược lại mức giá thấp của phạm vi giao dịch được gọi là thanh khoản bên bán (SSL) với giả đỉnh rằng các lệnh sell stop nằm bên dưới mức giá thấp của phạm vi giao dịch.
Các bạn nhìn hình bên dưới chính là vùng thanh khoản bên ngoài (ERL):
Như vậy, đối với vùng thanh khoản bên ngoài, anh em có thể hiểu đơn giản đó là đỉnh và đáy hình thành phạm vi giao dịch (Dealing Range) chính là vùng thanh khoản bên ngoài của chúng ta, trong đó một cái là thanh khoản đỉnh và một cái là thanh khoản đáy.
Nói chung là việc xác định vùng thanh khoản bên ngoài cũng khá đơn giản, không có gì phức tạp cả.
Giá di chuyển như thế nào để lấy được thanh khoản?
Về cơ bản thì giá di chuyển từ vùng thanh khoản bên ngoài tới vùng thanh khoản bên trong và sau đó lại di chuyển từ vùng thanh khoản bên trong ra tới vùng thanh khoản bên ngoài.
Vì vậy, sau khi bạn xác định được những vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài này thì hãy chú ý nếu như giá lấy đi thanh khoản phạm vi bên ngoài thì vùng giá tiếp theo mà nó di chuyển tới có khả năng cao chính là vùng thanh khoản bên trong với mục đích là để tái cân bằng lại khoảng cách giá trị hợp lý hay còn gọi là FVG và sau đó lại di chuyển qua vùng thanh khoản bên ngoài và chu kỳ này cứ tiếp diễn như vậy nhé anh em.
Khung thời gian tốt nhất để đánh dấu vùng thanh khoản bên trong (IRL) và vùng thanh khoản bên ngoài (ERL)
Để đánh dấu IRL và ERL trên biểu đồ giá thì bạn nên sử dụng khung thời gian thấp hơn để xác định vùng thanh khoản bên ngoài chẳng hạn như khung M15.
Còn vùng thanh khoản bên trong bạn cũng có thể sử dụng khung thời gian thấp như M15 hoặc có thể sử dụng khung thời gian thấp hơn nữa để xác định nhé.
Nhận biết xu hướng hằng ngày bằng cách sử dụng thanh khoản bên trong và bên ngoài
Có thể nói các vùng thanh khoản bên ngoài và vùng thanh khoản bên trong rất có lợi cho việc xác định xu hướng tiềm năng trong ngày.
Để có thể xác định được xu hướng trong ngày bạn có thể làm như sau:
1. Xác định ERL và IRL
Như chúng ta đã nói trước đó thì giá di chuyển từ vùng thanh khoản bên trong ra tới vùng thanh khoản bên ngoài và ngược lại giá di chuyển từ vùng thanh khoản bên ngoài vô lại vùng thanh khoản bên trong.
Vì thế nên bạn hãy xác định phạm vi thanh khoản bên trong và bên ngoài trên biểu đồ ngày/tuần gần sát, phía trên và phía dưới giá hiện tại.
2. Xu hướng tiềm năng
- Nếu như bạn thấy giá lấy đi vùng thanh khoản bên trong và còn vùng thanh khoản bên ngoài thì đang nằm phía trên thì giá có thể sẽ tăng để lấy đi vùng thanh khoản bên ngoài.
- Nhưng nếu như giá lấy đi vùng thanh khoản bên trong và còn vùng thanh khoản bên ngoài thì nằm bên dưới xu hướng thì khả năng giá sẽ giảm vì nó sẽ tìm tới vùng thanh khoản bên ngoài.
3. Các kịch bản sau khi lấy đi vùng thanh khoản bên ngoài (ERL)
Thứ nhất: trong thị trường tăng giá
Nếu như bạn thấy giá quét và đóng cửa bên dưới ERL (đỉnh cũ) với sự đảo chiều hoặc có sự chuyển đổi động lượng ở khung thời gian thấp hơn, thì đó là dấu hiệu cho thấy thị trường có thể đảo chiều tiềm năng, thị trường bây giờ có thể sẽ giảm giá để đạt được vùng thanh khoản bên trong (IRL) cũng là FVG của chúng ta.
Thứ hai: Không có sự đảo chiều
Tức là giá đóng cửa phía trên ERL nhưng không có tín hiệu đảo chiều hoặc chuyển đổi động lượng nào sau khi quét ERL (đỉnh cũ) thì có thể có 2 khả năng sau:
- Một là tiếp tục xu hướng tăng giá trước đó và giá có thể tiếp tục tăng vượt ra ngoài vùng thanh khoản ERL này.
- Hai đó là thị trường có thể đi vào trạng thái tích lũy quanh ERL trước khi thực hiện một động thái định hướng khác.
Có thể thấy được thị trường sau khi lấy đi ERL trước đó thì nhanh chóng giảm giá và tìm về lại IRL của chúng ta.
Thực sự nếu có thể xác định chính xác được những vùng thanh khoản bên trong và bên ngoài này có thể giúp cho các bạn nhanh chóng xác định được hướng đi ngắn hạn của thị trường và xác định mục tiêu giá cực kỳ chính xác, từ đó định hướng được chiến lược chính xác và có xác suất thắng cao hơn.
Và nhớ là luôn phải xác định bối cảnh và có thêm tín hiệu xác nhận khác để có được xác suất thành công cao hơn nhé.
Mời anh em tham khảo.
Trích nguồn: innercircletrader
Giới thiệu sách Trading hay
Thấu hiểu Hành vi giá Thị trường Tài chính - Understanding Price Action
Là quyển sách hướng dẫn giao dịch Phương Pháp Price Action của Bob Volman, chỉ sử dụng duy nhất một đường MA và cấu trúc thị trường cùng hành vi giá để tìm kiếm lợi nhuận
Chỉnh sửa lần cuối:
Bài viết liên quan