- 19,234
- 88,621
- Thread cover
- data/assets/threadprofilecover/bobvolman56-1746232135.png
- Chủ đề liên quan
- 87847,87684,87652
Biểu đồ giá thường xuất hiện các khoảng trống giữa các thanh nến, chúng được gọi là khoảng trống giá (gap). Chúng biểu thị thời điểm không có cổ phiếu được giao dịch trong một phạm vi giá cụ thể. Khoảng trống giá là kết quả của sự quan tâm đến việc mua hoặc bán bất thường của những người tham gia thị trường tại thời điểm thị trường đóng cửa. Khi thị trường mở cửa, giá tăng hoặc giảm đủ để đáp ứng tất cả các lệnh mua hoặc bán.
Để hình thành khoảng trống giá tăng, giá thấp nhất của ngày có khoảng trống giá phải cao hơn giá cao nhất của ngày hôm trước. Khoảng trống giá tăng thường được coi là dấu hiện tăng giá hoặc tiếp diễn xu hướng tăng.
Khoảng trống giá giảm hoàn toàn ngược lại với khoảng trống giá tăng; giá cao nhất của ngày có khoảng trống giá phải thấp hơn giá thấp nhất của ngày hôm trước. Khoảng trống giá giảm thường được coi là dấu hiệu giảm giá hoặc tiếp diễn xu hướng giảm.
Chú thích hình ảnh: Up Gap (Khoảng trống giá tăng); Down Gap (Khoảng trống giá giảm); Closed Gap (Lấp gap, lấp đầy khoảng trống giá)
Khoảng trống giá tăng và giảm có thể hình thành trên biểu đồ khung ngày, khung tuần hoặc khung tháng và được coi là tín hiệu tin cậy khi đi kèm với khối lượng cao hơn mức trung bình.
Biểu đồ giá có khoảng trống giá xuất hiện mỗi ngày (khi nào cũng có) là điển hình cho các mã chứng khoán có thanh khoản kém, được giao dịch rất ít và nên tránh. Nếu giá tăng hoặc giảm tạo khoảng trống khi mở cửa thị trường và sau đó lấp đầy khoảng trống trước khi đóng cửa thị trường thì chúng được xem là khoảng trống giá tạm thời trong ngày và không có ý nghĩa gì.
Nhiều traderr lầm tưởng rằng khoảng trống giá ảnh hưởng đến giá trong tương lai và nó sẽ bị lấp đầy vào 1 ngày nào đó. Tuy nhiên, khoảng trống giá hầu như không ảnh hưởng đến hành động giá trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi hình thành.
Có 4 loại khoảng trống giá (gap) chính:
Khoảng trống giá phá vỡ (Breakaway Gap): Báo hiệu sự thay đổi trong tâm lý thị trường về triển vọng tương lai của một mã chứng khoán, đặc biệt là khi đi kèm với khối lượng giao dịch cao hơn mức trung bình. Khoảng trống giá phá vỡ tăng giá hình thành sau một đợt giảm kéo dài, tạo nền kéo dài hoặc giai đoạn đi ngang. Khoảng trống giá phá vỡ giảm giá hình thành sau một đợt tăng kéo dài, tạo đỉnh kéo dài hoặc giai đoạn đi ngang.
Chú thích hình ảnh: Up Gap (Khoảng trống giá tăng); Down Gap (Khoảng trống giá giảm); Consolidation (Vùng dao động); Các gap khác được mô tả trong phần định nghĩa
Khoảng trống giá thông thường (Common Gap): Xuất hiện trong các vùng dao động đi ngang hoặc ngay sau một động thái mạnh như một phản ứng với các tin tức. Những khoảng cách này không phản ánh sự thay đổi trong tâm lý thị trường mà thể hiện sự biến động giá hoặc mất cân bằng tạm thời giữa cung và cầu. Ví dụ, nếu mã chứng khoán giảm 20% trong một tuần và tăng giá trở lại, thì đó sẽ được coi là khoảng trống giá thông thường và không có khả năng biểu thị sự thay đổi trong xu hướng. Hoặc, nếu 1 vùng dao động (vùng nền) hình thành trong khoảng từ 20 đến 30 đô la và một khoảng trống giá hình thành ở giữa vùng nền đó, thì đó có thể là khoảng trống giá thông thường.
Khoảng trống giá tiếp diễn (Continuation Gap): Hình thành gần giữa xu hướng ngắn hạn hoặc 1 xu hướng lớn. Những trống giá này báo hiệu sự tiếp tục của xu hướng trước đó. Khoảng trống giá tiếp diễn cũng được gọi là measuring gap hoặc runaway gaps theo tên tiếng Anh. Những khoảng giá trống này có thể được kích hoạt bởi các sự kiện tin tức thu hút nhiều sự chú ý của thị trường hoặc hình thành khi phá vỡ các mô hình như Cờ chặt, Cờ, Cờ hiệu.
Khoảng trống giá kiệt sức (Exhaustion Gap): Xuất hiện tại các điểm mở rộng cuối cùng của xu hướng. Để khoảng trống giá kiệt sức được coi là hợp lệ, giá phải đảo ngược ngay sau khi tạo khoảng trống giá và lấp đầy khoảng trống đó trong 1 thời gian ngắn. Sự kiện này thường đánh dấu sự kết thúc của xu hướng.
Để hình thành khoảng trống giá tăng, giá thấp nhất của ngày có khoảng trống giá phải cao hơn giá cao nhất của ngày hôm trước. Khoảng trống giá tăng thường được coi là dấu hiện tăng giá hoặc tiếp diễn xu hướng tăng.
Khoảng trống giá giảm hoàn toàn ngược lại với khoảng trống giá tăng; giá cao nhất của ngày có khoảng trống giá phải thấp hơn giá thấp nhất của ngày hôm trước. Khoảng trống giá giảm thường được coi là dấu hiệu giảm giá hoặc tiếp diễn xu hướng giảm.
Chú thích hình ảnh: Up Gap (Khoảng trống giá tăng); Down Gap (Khoảng trống giá giảm); Closed Gap (Lấp gap, lấp đầy khoảng trống giá)
Khoảng trống giá tăng và giảm có thể hình thành trên biểu đồ khung ngày, khung tuần hoặc khung tháng và được coi là tín hiệu tin cậy khi đi kèm với khối lượng cao hơn mức trung bình.
Biểu đồ giá có khoảng trống giá xuất hiện mỗi ngày (khi nào cũng có) là điển hình cho các mã chứng khoán có thanh khoản kém, được giao dịch rất ít và nên tránh. Nếu giá tăng hoặc giảm tạo khoảng trống khi mở cửa thị trường và sau đó lấp đầy khoảng trống trước khi đóng cửa thị trường thì chúng được xem là khoảng trống giá tạm thời trong ngày và không có ý nghĩa gì.
Nhiều traderr lầm tưởng rằng khoảng trống giá ảnh hưởng đến giá trong tương lai và nó sẽ bị lấp đầy vào 1 ngày nào đó. Tuy nhiên, khoảng trống giá hầu như không ảnh hưởng đến hành động giá trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi hình thành.
Có 4 loại khoảng trống giá (gap) chính:
Khoảng trống giá phá vỡ (Breakaway Gap): Báo hiệu sự thay đổi trong tâm lý thị trường về triển vọng tương lai của một mã chứng khoán, đặc biệt là khi đi kèm với khối lượng giao dịch cao hơn mức trung bình. Khoảng trống giá phá vỡ tăng giá hình thành sau một đợt giảm kéo dài, tạo nền kéo dài hoặc giai đoạn đi ngang. Khoảng trống giá phá vỡ giảm giá hình thành sau một đợt tăng kéo dài, tạo đỉnh kéo dài hoặc giai đoạn đi ngang.
Chú thích hình ảnh: Up Gap (Khoảng trống giá tăng); Down Gap (Khoảng trống giá giảm); Consolidation (Vùng dao động); Các gap khác được mô tả trong phần định nghĩa
Khoảng trống giá thông thường (Common Gap): Xuất hiện trong các vùng dao động đi ngang hoặc ngay sau một động thái mạnh như một phản ứng với các tin tức. Những khoảng cách này không phản ánh sự thay đổi trong tâm lý thị trường mà thể hiện sự biến động giá hoặc mất cân bằng tạm thời giữa cung và cầu. Ví dụ, nếu mã chứng khoán giảm 20% trong một tuần và tăng giá trở lại, thì đó sẽ được coi là khoảng trống giá thông thường và không có khả năng biểu thị sự thay đổi trong xu hướng. Hoặc, nếu 1 vùng dao động (vùng nền) hình thành trong khoảng từ 20 đến 30 đô la và một khoảng trống giá hình thành ở giữa vùng nền đó, thì đó có thể là khoảng trống giá thông thường.
Khoảng trống giá tiếp diễn (Continuation Gap): Hình thành gần giữa xu hướng ngắn hạn hoặc 1 xu hướng lớn. Những trống giá này báo hiệu sự tiếp tục của xu hướng trước đó. Khoảng trống giá tiếp diễn cũng được gọi là measuring gap hoặc runaway gaps theo tên tiếng Anh. Những khoảng giá trống này có thể được kích hoạt bởi các sự kiện tin tức thu hút nhiều sự chú ý của thị trường hoặc hình thành khi phá vỡ các mô hình như Cờ chặt, Cờ, Cờ hiệu.
Khoảng trống giá kiệt sức (Exhaustion Gap): Xuất hiện tại các điểm mở rộng cuối cùng của xu hướng. Để khoảng trống giá kiệt sức được coi là hợp lệ, giá phải đảo ngược ngay sau khi tạo khoảng trống giá và lấp đầy khoảng trống đó trong 1 thời gian ngắn. Sự kiện này thường đánh dấu sự kết thúc của xu hướng.
Nguồn: Stockcharts
Giới thiệu sách Trading hay
Mô Hình Biểu Đồ - Phương Pháp Hiệu Quả Để Tìm Kiếm Lợi Nhuận
Được xem là cẩm nang về mô hình biểu đồ của các nhà đầu tư, giao dich tài chính toàn cầu và là kiến thức bắt buộc phải nắm về Phân Tích Kỹ Thuật
Bài viết liên quan